Lựa chọn địa điểm và chuẩn bị công trình nuôi rươi
1. Chọn địa điểm nuôi
- Đầm nuôi rươi là bãi triều hoặc ruộng lúa có nước thủy triều ra vào và độ mặn 0 – 10%. Không bị ảnh hưởng của nguồn nước thải khu dân cư, khu công nghiệp.
- Đáy đầm thì phải là bùn cát có độ kết dính tốt, trong đó bùn chiếm 7 phần và cát là 3 phần có pH ≥5. Tránh nơi đất cát, nhiều mùn bã hữu cơ dễ gây sạt lở không giữ được nước hoặc nơi đất chua phèn làm pH giảm thấp.
Nguồn nước cấp vào đảm bảo hàm lượng ôxy tối thiểu là 4mg/l; độ pH từ 6,5 - 8,5; độ kiềm 80 – 120mg/l CaCO3.
2. Chuẩn bị công trình nuôi
2.1. Thiết kế đầm (ruộng) nuôi
- Đầm (ruộng) nuôi rươi nên có diện tích tối thiểu 5.000m2, xung quanh phải có bờ bao chắc chắn và cao hơn mức thủy triều khoảng 30 – 50cm. Độ cao bờ 1 – 1,5m; chiều rộng chân đáy 1,5 – 3m, mặt bờ rộng 1 – 1,5m.
- Đáy đầm (ruộng) phải bằng phẳng hơi dốc về phía cống thu hoạch khoảng 50 đảm bảo khi tháo nước phải róc nước. Nên thiết kế một mương nhỏ trong đầm giúp cho việc cấp thoát nước được thuận lợi.
2.2. Thiết kế và xây cống
Cống gồm cống lấy nước vào và cống thu hoạch, nếu quy mô nhỏ có thể kết hợp 2 loại cống này.
- Cống lấy nước: Kích cỡ to hay nhỏ, số lượng nhiều hay ít phụ thuộc vào diện tích đầm (ruộng) và khối lượng nước lấy vào đầm. Cống lấy nước được xây bằng gạch như cống ở các đầm nuôi tôm.
- Cống thu hoạch: gồm các phần chính: miệng cống, thân cống, đáy cống, cánh phai..
+ Miệng cống: hướng quay vào trong đầm, là nơi đặt xăm thu hoạch.
+ Thân cống: là nơi thu hoạch nên thân cống phải dài để đảm bảo dòng nước qua đây không bị chảy quá siết gây vỡ sản phẩm.
+ Đáy cống: mặt thấp hơn đáy đầm khoảng 20 cm đảm bảo lúc nước xuống là đáy đầm phải cạn khô. Đáy cống có tác dụng truyền áp lực của tải trọng phân bố đều trên nền cống tránh hiện tượng lún không đều.
+ Cánh phai: gồm nhiều cánh phai bằng gỗ để điều chỉnh lưu lượng nước qua cống.
3. Chuẩn bị đầm (ruộng) nuôi rươi
Do đặc điểm của rươi là ưa thích sống trong ruộng lúa; sau khi gặt lúa, gốc rạ để lại tạo ra một lượng mùn bã đáng kể làm thức ăn cho rươi. Do vậy việc chuẩn bị đầm rươi là khâu quan trọng ảnh hưởng đến năng suất nuôi; có quan hệ mật thiết với mùa vụ cây lúa.
Nên cải tạo đầm ruộng nuôi vào những ngày nước kém để tránh nước đục trong đầm chảy ra mang theo mùn bã hữu cơ (thức ăn của rươi). Cách cải tạo như sau:
- Tháo cạn đầm bắt hết các loại cá, tôm, cua, cáy là địch hại của rươi.
- Phát quang bờ bụi xung quanh đầm dọn bớt các bụi cỏ dưới đáy đầm.
- Kiểm tra và tu sửa cống nếu cần.
- Xúc tạp: Sục bùn hoặc cày bừa ở đáy đầm khoảng 20 cm, loại bỏ rác, thân cây… chưa phân hủy (gốc rạ phải để làm tơi xốp đất), lấp chỗ trũng (san lấp cho bằng phẳng, thoát hết nước, làm rãnh hướng về cống). Lưu ý: cấp nước vào đầm phải được lọc qua lưới để hạn chế địch hại.
- Thau rửa đáy đầm bằng cách cấp nước vào rồi tháo cạn làm lặp đi lặp lại từ 3 - 4 lần.
- Kiểm tra pH của đầm, nếu pH< 6 cần bón thêm vôi nông nghiệp với liều lượng 7 -10 kg/100m2.
- Bón thêm phân chuồng hoặc rơm rạ đã ủ hoai mục cùng vôi, liều lượng từ 500 – 600kg/ha để tăng thêm nguồn thức ăn cho rươi. Vôi và phân chuồng được rải đều, dùng máy lồng trộn lẫn vào nền đáy. Có thể tận dụng cây bèo tây và một số loại cỏ, cói, lác cây thân mềm dập vùi với đất tạo thành như là lượng phân xanh làm đất tơi xốp cho rươi dễ di chuyển và tạo mùn bã hữu cơ làm thức ăn cho rươi.
4. Cấy lúa
- Sau khi cải tạo đầm ruộng xong có thể tiến hành cấy lúa để tạo sinh cảnh cho rươi và giảm được nhiệt độ nước trong những ngày nắng. trồng lúa theo phương thức hữu cơ, không sử dụng phân vô cơ, hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật.
- Mùa vụ: cấy 1 vụ chiêm, tùy theo tình hình thời tiết của địa phương mà thực hiện theo khuyến cáo của cơ quan chuyên môn.
- Giống lúa: nên chọn loại giống lúa có khả năng chịu ngập, chịu mặn, có khả năng kháng sâu bệnh.
5. Thu và thả giống rươi
5.1. Thu giống tự nhiên:
- Chọn thời điểm lấy giống vào kỳ nước cường. Một năm có thể lấy giống tự nhiên vào 2 vụ: vụ hè vào tháng 4- 5 âm lịch, vụ thu đông vào tháng 9-12 âm lịch.
- Cách thực hiện: Khi nước thủy triều lên thì mở cống để nước chảy vào đầm, ấu trùng rươi sẽ theo nước và chui xuống lớp bùn trong đầm. Sau khi thủy triều rút khoảng 4 – 6 giờ thì tháo nước ra (Lưu ý: luôn giữ lại mực nước trong đầm từ 30 – 40cm). Cứ như vậy việc lấy giống có thể lặp đi lặp lại qua vài hôm vào những ngày nước cường.
5.2. Thả giống nhân tạo bổ sung:
- Thả bổ sung rươi giống nhân tạo với mật độ 2,5-3 triệu giống/ha. Lựa chọn con rươi giống đang ở giai đoạn trôi nổi (Metachophora), thả giống vào cống cấp nước khi thủy triều lên để con giống phân bố đều khắp đầm (ruộng) nuôi.
- Mùa vụ thả: thả giống nhân tạo vào vụ chiêm sau khi thu giống tự nhiên hoặc có thể thả quanh năm.
-Thả giống vào sáng sớm hoặc chiều tối, trời mát. Mực nước khi thả giống từ 40-50 cm, giữ nước trong đầm (ruộng) sau khi thả từ 4-7 ngày để ấu trùng rươi phân tán và khu trú xuống lớp bùn đáy. Khi thả giống cần lấy túi nilon ra khỏi thùng xốp, cho túi vào nước để cân bằng nhiệt độ với môi trường bên ngoài khoảng 5 – 10 phút.
+ Cỡ giống: 0,3-0,5 mm/con;
+ Thời gian nuôi: 150-180 ngày;
6. Quản lý và Chăm sóc
Sau khi lấy giống tự nhiên kết hợp thả giống bổ sung khoảng 1 tháng thì dùng vợt lưới mắt dày đãi lớp bùn trên bề mặt đáy đầm ruộng sx nhìn thấy rươi giống như những sợi chỉ đỏ với mật độ từ 150 cá thể/m2 trở lên là đạt yêu cầu.
Vào các kỳ con nước sau đều phải lấy nước vào đầm và tháo nước ra (duy trì mực nước từ 20 – 40cm) để tăng thêm nguồn thức ăn cho rươi (phù sa và tảo có trong nước). Chú ý khi lấy nước vào ra nên dùng đăng lưới để ngăn địch hại vào đầm, kiểm tra độ mặn (đảm bảo≤5‰). Những ngày tối trời dùng đèn đi quanh bờ đầm để bắt các loại cua, cáy, địch hại của rươi.
Không sử dụng bất cứ một loại hóa chất nào trong đầm cấy lúa kết hợp nuôi rươi, hạn chế lấy nước vào đầm các thời điểm cống xả nước ô nhiễm ra sông và vào những thời kỳ phun thuốc trừ sâu nhiều ở các cánh đồng lúa xung quanh.
Bổ sung thức ăn: Thức ăn bao gồm: cám công nghiệp ≥40% (loại dành cho tôm) và mùn bã hữu cơ được ủ từ cám gạo + rơm ủ mục cùng phân vi sinh) xay nhỏ cho vừa cỡ của rươi. Tháng đầu mỗi ngày cho ăn 2 bữa (sáng, chiều) tỷ lệ cho ăn 8-10% trọng lượng thân. Hai tháng tiếp theo mỗi ngày cho ăn 2 lần, tỷ lệ cho ăn là 4-5% trọng lượng thân. Các tháng còn lại cho ăn 2% trọng lượng thân. Rươi có tập tính sống trong lớp bùn, chúng chỉ chui ra khi bắt mồi nên khi cho ăn phải rải đều khắp mặt ao/vùng nuôi. Điều chỉnh lượng thức ăn tùy thuộc vào thời tiết và thức ăn tự nhiên trong đầm.
7. Thu hoạch
Thu hoạch lúa: nên thu hoạch bằng liềm; sau khi thu lúa xong nên để gốc rạ khô mục rồi cày úp xuống làm phân cho rươi. Tránh cày lúc gốc rạ còn tươi sẽ làm thối nước gây hại cho rươi.
Thu hoạch rươi: sau khi lấy và thả giống khoảng 5-6 tháng thì rươi có thể thành thục và thu hoạch; trước khi thu hoạch có thể đào đất dưới đầm (ruộng) để kiểm tra mật độ và độ thành thục của rươi. Trước thời điểm xác định thu hoạch (trong 3 ngày triều cường) thì phơi bãi 3 – 5 ngày để rươi có điều kiện thành thục được. Trong quá trình phơi bãi có thể bắt cá và các địch hại khác như cua, cáy; dọn dẹp bờ đầm để địch hại không có chỗ lẩn trốn.
Thu hoạch rươi bằng cách: Vào kỳ nước cường, lấy nước vào đầm (ruộng) thật đầy, lúc này, rươi thành thục sẽ bị kích thích và nổi lên trên mặt nước rồi bơi ra cống thu hoạch để di cư sinh sản. Tại đây, rươi sẽ được thu trong đáy lưới (Mắt lưới đáy có kích thước 1mm – 3mm). Quá trình thu rươi cần thao tác nhẹ nhàng nhấc túi đáy đổ rươi ra chậu, xuất bán hoặc chuyển vào khay xốp giữ lạnh để bảo quản rươi sống (khoảng 5 – 7 ngày) để vận chuyển đi xa.
Ths. Nguyễn Trung - Phòng Chuyển giao Kỹ thuật Thủy sản