Vụ Xuân năm 2025, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tình trạng xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt cục bộ ở một số khu vực phục vụ cho làm đất vụ Xuân, khiến tiến độ gieo cấy bị chậm, sinh trưởng cây lúa ảnh hưởng, dẫn đến thời điểm thu hoạch kéo lùi khoảng 7–10 ngày so với trung bình nhiều năm. Điều này gây áp lực lớn cho sản xuất vụ Mùa, nhất là đối với những vùng canh tác vụ Mùa sớm hoặc sản xuất vụ Đông trên đất 2 vụ lúa. Để đảm bảo vụ Mùa sản xuất đúng khung thời vụ, sinh trưởng thuận lợi, thu hoạch kịp trước mùa mưa bão và tạo điều kiện chuẩn bị tốt cho cây trồng vụ Đông, bà con nông dân cần thực hiện nghiêm túc và đồng bộ các biện pháp kỹ thuật dưới đây.
1. Làm đất khẩn trương – đúng kỹ thuật, xử lý rơm rạ hiệu quả
Ngay sau thu hoạch lúa Xuân, cần khẩn trương triển khai làm đất, tuyệt đối không đốt rơm rạ để bảo vệ môi trường và duy trì chất hữu cơ cho đất. Việc cày lật đất kết hợp lồng dập rạ sớm là giải pháp then chốt giúp đẩy nhanh tiến độ chuyển vụ. Để hạn chế ngộ độc hữu cơ do rơm rạ phân hủy, cần bổ sung chế phẩm sinh học như AT-YTB (100g/sào), R3 (80g/sào) hoặc rắc vôi bột (20–25 kg/sào) sau lồng lần 1, khi ruộng có nước láng mặt. Việc xử lý rơm rạ hiệu quả giúp cải tạo đất, tăng mùn hữu cơ và đảm bảo cho cây lúa sinh trưởng tốt ngay từ đầu vụ.
Chế phẩm sinh học xử lý gốc rạ
2. Bố trí giống lúa phù hợp với khung thời vụ – tránh để lùi thời vụ
Việc chọn giống phải căn cứ vào thời điểm cấy, chân ruộng và phương thức canh tác.
Đối với vụ Mùa sớm (cấy trước 01/7), nên sử dụng giống thuần có thời gian sinh trưởng ngắn (85-105 ngày) như Nếp 87, QS88, ĐH12…, gieo mạ dược từ 05–10/6 hoặc gieo thẳng từ 20–25/6.
Vụ chính vụ (cấy 05–20/7) sử dụng các giống có TGST trung bình (100-125 ngày) như BC15-02, TBR 225, Bắc Thịnh, Đài Thơm 8, JO2, VNR20, Hạt Ngọc 9, nếp cô nương, nếp nang liêu, nếp 97, …, gieo mạ sân hoặc mạ khay từ 01–05/7 (tuổi mạ 7–10 ngày). Đối với giống có TGST 100-120 ngày nên bố trí gieo cấy đầu vụ, chân ruộng trũng thấp, nên gieo mạ dược sớm từ 20–25/6.
Đối với vụ Mùa muộn, nên cấy các giống TGST dài (150-160 ngày) như Nếp cái hoa vàng, Nếp xoắn bằng mạ dược gieo từ 05–20/6, cấy xong trước 20/7. Cần tránh gieo cấy giống dài ngày trên chân ruộng gieo trồng cây vụ Đông, ảnh hưởng đến sản xuất cây trồng vụ sau.
3. Ngâm ủ giống lúa đúng kỹ thuật – rút ngắn thời gian
Trong điều kiện thời tiết vụ Mùa nắng nóng, quá trình ngâm ủ cần điều chỉnh phù hợp để tránh thối giống và đảm bảo mầm khỏe.
Lúa lai cần ngâm 10–24 giờ (thay nước 4 giờ/lần), lúa thuần 24–30 giờ (thay nước 6–8 giờ/lần). Sau khi hạt đã no nước, ủ trong bao thoáng khí, đặt nơi râm mát. Tiêu chuẩn mộng đạt là rễ mầm dài 1–2 mm, thân mầm bằng 1/3 – 1/2 hạt thóc.
4. Lựa chọn phương thức gieo mạ và chăm sóc mạ phù hợp từng vùng
Tùy điều kiện chân ruộng, bà con cần chọn phương thức gieo mạ thích hợp để tiết kiệm công, giống, đảm bảo chất lượng mạ. Chân ruộng cao, chủ động nước nên ưu tiên gieo mạ khay, cấy máy hoặc gieo thẳng – giúp rút ngắn thời vụ, tiết kiệm giống, dễ cơ giới hóa. Tuổi mạ phù hợp: mạ khay (8–10 ngày), mạ sân (10–12 ngày). Một số giống khuyến cáo cấy máy: ST25, VS1, QR15, VT-NA2, Bắc Thịnh, TBR279… Ngược lại, chân ruộng trũng thấp, khó thoát nước, nên gieo mạ dược, cấy tay, kết thúc trước 20/7 để hạn chế ngập úng do mưa bão.
Ngoài ra, phải phun trừ rầy lưng trắng trên mạ trước cấy 2–3 ngày để tránh lây lan bệnh lùn sọc đen sang ruộng cấy. Mạ phải khỏe, sạch bệnh, rễ phát triển đều, dảnh không dính chặt nhau.
Vụ Mùa năm 2025 đặt ra nhiều thách thức về thời vụ và thời tiết. Các địa phương cần nghiêm túc tuân thủ khung thời vụ, bám sát Kế hoạch 51/KH-SNNMT ngày 02/6/2025 của Sở Nông nghiệp và Môi trường, chủ động trong làm đất, xử lý rơm rạ, chọn giống, ngâm ủ và chăm sóc mạ phù hợp điều kiện từng vùng. Việc ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ, kết hợp chăm sóc bón phân cân đối, đúng giai đoạn sinh trưởng cây lúa, điều tiết nước, dự báo và phòng trừ sâu bệnh kịp thời là yếu tố quyết định để vụ Mùa đạt năng suất, chất lượng cao và tạo thuận lợi cho sản xuất vụ Đông.
Ks. Cao Thị Thu Hiệp – Phòng Chuyển giao kỹ thuật Nông nghiệp